CẬN THỊ

Tính chất vật lý của sự rối
loạn khúc xạ ở bệnh cận thị rất đơn giản: Hình ảnh của vật
nhìn thấy không được hội tụ trên võng mạc như mắt bình hường mà là hội tụ ở
trước võng mạc, vì vậy mà người cận thị khi nhìn vật ở cự ly xa sẽ không rõ
nét.
Hiện tượng này xảy ra hoặc có thể
do:
· Giác mạc và thể thuỷ tinh làm khúc xạ
ánh sáng quá mạnh.
·
Trục nhãn cầu của người bệnh dài hơn
bình thường nên võng mạc bị đẩy lùi ra xa hơn tiêu điểm. Bình thường, trục
nhãn cầu dài khoảng 23 mm. Ở những người cận thị,số đo này có thể là 30 mm
hoặc dài hơn. Khi trục nhãn cầu dài hơn mỗi milimét sẽ làm cho số độ cận tăng
thêm 3 D.
|
|
CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN CẬN THỊ
Có nhiều nguyên nhân gây cận thị.
Những nguyên nhân chính có thể kể đến là :
- Đọc sách hoặc làm việc
phải dùng mắt nhìn chăm chú thời gian dài ở khoảng cách gần, trong điều kiện
ánh sáng kém.
- Yếu tố di truyền, do một
số đặc điểm cấu trúc nhãn cầu hoặc khác biệt về trao đổi chất trong cơ thể.
- Củng mạc yếu do cấu trúc
đặc biệt của các sợi mô liên kết của bệnh nhân nên không giữ được thành nhãn
cầu ổn định.
- Do cơ thể mi kém phát
triển, không đủ khả năng điều tiết để làm cho con mắt thích ứng với các cự ly
nhìn khác nhau. Cơ thể mi yếu phải gắng sức thường xuyên sẽ làm tăng nguy cơ bị
cận thị.
Trong trường hợp cận thị không phải ở dạng bẩm sinh mà thường xuất hiện nhiều hơn ở trẻ em ở độ tuổi từ 10
-16 tuổi trong quá trình phát triển của nhãn cầu mắt.
Đặc thù nhất định về
giải phẫu học về mắt, các yếu tố mang tính di truyền , đồng thời cận thị cũng
có thể được gây ra bởi các nguyên nhân gây hại như stress, mắt làm việc quá
mức, do mắc bệnh về mắt nói chung, do môi trường ô nhiễm nặng và nhiều nguyên
nhân khác.
BIỂU HIỆN CỦA CẬN THỊ
Bình thường, cận thị xảy ra
khi trẻ còn nhỏ và dễ dàng nhận thấy ở tuổi đến trường. Trẻ nhìn kém những vật
ở xa, không phân biệt được chữ,số trên bảng và phải cố gắng đến gần tivi hoặc
ngồi ghế đầu trong rạp chiếu phim. Khi cần nhìn rõ các vật có thể thấy những
người cận thị hay nheo mắt. Ngoài thị lực nhìn xa giảm, những người bị cận thị
còn nhìn kém lúc sẩm tối nên buổi chiều tối họ đi lại trên phố cũng như lái ô
tô kém hơn. Để nhìn tốt hơn, người bị cận thị phải đeo kính tiếp xúc hoặc
đeo kính cận. Đôi khi họ phải thay mắt kính. Cần biết rằng đeo kính không giúp
làm ngừng cận thị tiến triển mà chỉ điều chỉnh được số kính. Nếu thị lực
giảm, thường cần phải đổi số kính cao hơn do tăng độ cận.
CÁC DẠNG CẬN THỊ
1/ Cận thị đơn thuần hay còn gọi là cận thị khúc xạ.
Xảy ra do lực khúc xạ của mắt quá lớn, (do lực khúc xạ của giác
mạc hoặc thể thủy tinh quy định) trong khi chiều dài trục nhãn cầu bình thường.
Có độ cận thị thường dưới 6D và không có tổn thương đáy mắt. Loại cận thị này
hay bắt đầu ở tuổi đi học.
Sự phát triển nhanh hay chậm
của cận thị là tùy thuộc vào lứa tuổi bắt đầu bị cận. Nếu dưới 8 tuổi bị cận
thì mỗi năm sẽ tăng lên 1D. Nếu từ 8 đến 10 tuổi mới bắt đầu bị cận thì mỗi năm
nặng thêm 0.7D. Trong những mắt cận bắt đầu từ sau 10 tuổi thì cứ 3 năm phát
triển thêm 1D. Dù cận thị bắt đầu ở lứa tuổi nào, cũng phát triển trong vòng 3
hoặc 4 năm thì ngừng, nhưng sau đó, có thể có những đợt phát triển mới làm cho
mắt càng nặng, như trong thời kỳ thai nghén, khi mắc một bệnh nặng như lao,
thương tật…
Cận thị biểu hiện chủ yếu
bằng thị lực giảm khi nhìn xa, còn nhìn gần vẫn bình thường. Một người cận thị
cảm thấy không còn đọc rõ chữ trên bảng nữa, đi xem chiếu bóng trông hình ảnh
rất mờ, khám mắt thấy thị lực nhìn xa giảm sút trầm trọng. Thật vậy, với mỗi
mức độ cận thị sẽ tương ứng với một thị lực khoảng
Độ cận thị
-0.5D có thị
lực
4/10
Độ cận thị
-1D có thị
lực
2/10
Độ cận thị
-1.5D có thị
lực
1/10
Độ cận thị
>2D có thị lực
<1/10
Muốn nhìn rõ hơn, người cận thị luôn luôn nheo mắt. Tật nheo mắt
này cho phép chẩn đoán dễ dàng tật cận thị. Ngược với nhìn xa, người cận thị
nhẹ nhìn gần rất tốt, họ đọc sách với chữ rất nhỏ mà không cần mang kính, miễn
sao có khoảng cách đúng tầm.
Nguyên nhân:
Cho đến nay vẫn còn một số người cho rằng làm việc phải nhìn gần
nhiều sẽ dễ bị cận thị. Dẫn chứng là đối với học sinh thì cấp 3 nhiều cận thị
hơn cấp 2, cấp 2 nhiều hơn cấp 1. Một dẫn chứng khác là ở người lao động trí óc
hay ở những người làm việc phải nhìn gần (thợ đồng hồ, công nhân in…) thì tỉ lệ
cận thị cao hơn nhiều so với những người khác.
Tuy vậy nhưng càng ngày càng
có nhiều người không thừa nhận những nguyên nhân như trên. Họ cho rằng nếu các
em ở cấp 3 cận thị nhiều hơn cấp 2 và cấp 2 nhiều hơn cấp 1 là vì cận thị
thường bắt đầu xuất hiện sau 10 tuổi. Nói cận thị học đường, chính là ý nói cận
thị phát sinh trong tuổi đương đi học, là tuổi phát triển của các em, mà không
có nghĩa học đường là nguyên nhân của cận thị. Mặt khác, chúng ta cũng thấy có
những trường hợp cận thị bắt đầu rất sớm (trước 8 tuổi) và phát triển đến 11
tuổi thì ngừng.
Ngày nay, người ta có xu
hướng nhấn mạnh đến yếu tố di truyền; người ta có nhận xét là tỷ lệ cận thị rất
thay đổi tùy theo giống người. Tỷ dụ như người Anhđiêng ở Mêhicô không bao giờ
bị cận thị, dân tộc Palinêgrít ở Châu Phi tỷ lệ bị cận thị rất thấp (0.14%).
Ngược lại, các giống người Anhđu (Châu Á), Đức (Châu Âu) bị cận thị khá nhiều.
Thử kính mắt cận thị
Bệnh nhân cũng đứng cách bảng thị lực 5m, đặt trước từng mắt, kính
-1D. Nếu mắt chính thị hay viễn thị có lực điều tiết tốt (ở người trẻ) thì thị
lực gần như không bị ảnh hưởng, chỉ giảm đi khi lực điều tiết kém (người lớn
tuổi). Nhưng nếu là cận thị thì thị lực sẽ tăng rõ. Ta lần lượt cho những kính
phân kỳ có số cao dần, thị lực sẽ tăng mãi cho đến mức tối đa (có thể 10/10 hay
hơn nữa). Nếu ta cứ tiếp tục tăng số kính lên thì có thể thị lực vẫn cao như
vậy ở vài số tiếp sau, rồi sẽ tụt xuống. Độ cận thị là: kính phân kỳ
có số nhỏ nhất cho thị lực nhìn xa cao nhất.
Thí dụ: Một mắt có độ cận
thị là -4D, ta lần lượt cho các số kính từ -1, -2, -3 rồi -4. Với kính -4D sẽ
cho thị lực cao nhất tới 10/10. Nếu ta tăng số kính lên nữa như -5, -6 thị lực
có thể vẫn 10/10, như vậy là ta đã biến con mắt cận thị trở thành viễn thị,
nhưng nhờ có sức điều tiết tốt, nên mắt vẫn nhìn rõ. Vậy số kính đo độ cận thị
đúng là -4D.
Tuy vậy, phương pháp trên
vẫn dựa vào sự nhận thức chủ quan của bệnh nhân là chính. Muốn xác định thật
chính xác mức độ cận thị, người bệnh cần được khám kỹ lưỡng đầy đủ một quy
trình chuẩn của Bác sĩ chuyên khoa mắt, đặc biệt là đối với trẻ em.
Nguyên tắc điều chỉnh cận thị bằng kính:
- Không mang kính có làm cho cận thị nặng thêm không?
Rõ ràng là không. Nhiều trường hợp mang kính thường xuyên, nhưng không hề làm
ngừng quá trình phát triển của cận thị và ngược lại những trường hợp khác không
đeo kính, nhưng cận thị vẫn ổn định.
- Mang kính có làm cận thị nặng lên không?
Không. Chỉ khi nào dùng kính không thích hợp thì khi bỏ kính, mắt sẽ có cảm
giác như nặng lên.
Tóm lại, kính không có tác
dụng gì đối với sự tiến triển của cận thị. Nhưng kính lại rất cần thiết cho sự
phát triển hài hòa của thị giác 2 mắt và sự phối hợp động tác điều tiết – quy
tụ. Bởi vậy, rất nên và phải dùng kính đối với mắt cận thị. Nhưng không nên đeo
thường xuyên. Đối với trẻ em, chỉ cần đeo kính trong lớp học để dễ dàng nhìn
bảng và khi nhìn gần là lúc tập luyện cho động tác phối hợp giữa điều tiết và
quy tụ. Đối với người lớn thì phải xét đến công việc cụ thể của từng người mà
sử dụng kính cho thích hợp. Một điều cần phải hết sức chú ý là không được đeo
kính quá số, vì như vậy sẽ gây ra một sự co kéo thường xuyên của cơ thể mi để
trung hòa phần kính quá số, sẽ gây mỏi mắt, nhức đầu.
2/ Cận thị bệnh hay
còn gọi là cận thị trục
Xảy ra do trục nhãn cầu quá
dài, trong khi lực khúc xạ của mắt bình thường. Trục nhãn cầu bị dài ra nguyên
nhân là do cấu trúc của thành nhãn cầu bị dãn mỏng. Loại cận thị này thường có
tính chất gia đình và thường xảy ra rất sớm ngay khi trẻ còn nhỏ tuổi, chưa đi
học. Cận thị tiến triển rất nhanh, làm thị lực giảm sút nhiều, đồng thời làm
võng mạc bị dãn mỏng dễ dẫn tới nguy cơ thoái hóa hắc võng mạc, rách võng mạc,
thậm chí gây bong võng mạc dẫn tới mù lòa.
Cận thị bệnh thường >-7D,
có khi tới -20 hoặc -30D và nhất là có tổn hại ở đáy mắt.
Thị lực rất thấp khi chưa
điều chỉnh bằng kính. Dù với kính thích hợp nhất, thị lực thường chỉ đạt tới 4
– 5/10, có khi chỉ 1/10 hoặc 2/10.
Do nhãn cầu dài nên mắt hơi
lồi, nhận thấy rất rõ khi cận thị 1 bên.
Cận thị bệnh tiến triển theo
từng đợt cấp diễn xen giữa những giai đoạn dài ổn định. Khi bệnh nặng lên nhanh
chóng, người ta gọi là cận thị ác tính. Cận thị tăng lên từng năm, đôi khi khó
xác định là chỉ do cận thị hay còn có sự tham gia của thể thủy tinh bị xơ cứng.
Thị lực giảm dần đi và càng
ngày càng khó điều chỉnh bằng kính. Các chức năng khác của mắt cũng suy giảm
rất sớm; thị trường bị tổn hại rất nhiều, mắt thích nghi trong tối rất
kém.
Ở đáy mắt có nhiều đám thoái
hóa hắc võng mạc rất điển hình, những đám này tròn trắng hay nhiều vòng. Đó là
củng mạc được nhìn qua võng và hắc mạc đã bị teo. Lúc đầu, những đám này nhỏ,
sau tập trung lên thành một mảng rộng. Thường gặp những tổn hại này ở cực sau,
hình thái khá giống với một sẹo của viêm hắc mạc. Vì vậy người ta thường hay
gọi là viêm hắc võng mạc cận thị.
Trong khi tiến triển, cận
thị còn kèm theo chảy máu, nhất là ở vùng hoàng điểm. Vết máu rút đi nhanh
chóng và để lại một vệt đen gọi là vệt Fuchs.
Về biến chứng thì thường gặp
nhất và cũng khốc liệt nhất là bong võng mạc, nếu không xử trí kịp thời và đúng
sẽ mù vĩnh viễn. Một điều cần hết sức lưu ý là bệnh glocom phát triển ở trên
những mắt này rất dễ bị bỏ qua vì sự mềm giãn của củng mạc làm cho nhãn áp như
không cao, đến khi mắt mù mà vẫn tưởng nguyên nhân chỉ là cận thị.
Điều trị cận thị
Người cận thị nhìn
xa rõ khi được chỉnh kính phân kỳ (kính – điốp hay gọi là kính cận thị).
Kính gọng là một trong những biện pháp cần thiết để
điều chỉnh tật cận thị. Tuỳ theo mức độ cận thị, bệnh nhân cần đeo kính thường
xuyên hay chỉ cần đeo kính khi nhìn xa (các bác sĩ nhãn khoa sẽ tư vấn cụ thể
cho từng trường hợp). Nếu bệnh nhân cận thị được chỉnh kính đúng, thích hợp
tiến triển cận thị sẽ chậm hơn.
Ngoài kính gọng
bệnh nhân có thể dùng kính tiếp xúc, phương pháp này có lợi ích mỹ quan. Tuy
nhiên người sử dụng phải đặc biệt thận trọng giữ vệ sinh nếu không sẽ tổn hại
đến giác mạc có thể gây viêm hoặc loét giác mạc.
Đeo kính cận thị
không thể làm dừng lại mức độ tăng số kính mà nó chỉ có thể điều chỉnh mức độ
quang học. Nếu thị lực kém đi và cần tăng số kính cận thị có nghĩa là cận thị
tiến triển (độ cận thị năng thêm).
Ngoài việc chỉnh
kính, để hạn chế cận thị tiến triển, giữ ổn định số kính cận thị và đề phòng
các biến chứng cận thị như xuất huyết dịch kính, võng mạc, bong võng mạc … dẫn
đến giảm thị lực trầm trọng, bệnh nhân cần được điều trị bằng một số phương
pháp thích hợp làm hạn chế tăng số kính cận thị tiến đến ổn định độ cận thị và
đề phòng biến chứng cận thị.
Vật lí trị
liệu: tác
động làm phục hồi chức năng điều tiết mắt, tăng cường tuần hoàn cơ thể mi, võng
mạc, tăng cường trao đổi chất, tăng cường trương lực cơ như : Luyện tập điều
tiết trên máy, thuốc tác động lên điều tiết, dùng sóng siêu âm, điện, điện tử,
lazer năng lượng thấp.
Phẫu thuật:
- Đối với trẻ em
cận thị có số kính tăng nhanh (trên 1,0 điốp/ năm) cần can thiệp phẫu thuật
ghép độn củng mạc để hạn chế mức độ tăng số kính và giãn lồi củng mạc.
- Đối với bệnh
nhân trên 18 tuổi có độ cận thị ổn định có thể phẫu thuật điều trị cận thị bỏ
kính bằng laser excimer (LASIK).
Cận thị tiến triển
(tăng số kính) – đây không chỉ là đơn thuần rối loạn chức năng thị giác có thể
chỉnh kính mà là một biểu hiện bệnh lý có biến chứng tương đối nguy hiểm.
Phương pháp dùng laser hồng ngoại năng lượng thấp có độ dài bứơc sóng 1,3
micromet tác động gián tiếp xuyên qua củng mạc kích thích cơ thể mi kết hợp
luyện tập điều tiết trên máy là một trong những phương pháp mới, hiện đại điều
trị tiến triển cận thị ở trẻ em dựa trên nguyên lý: Tăng cường tuần hoàn, tăng
cường trao đổi chất của cơ điều tiết – đang được áp dụng điều trị tại Bệnh viện
Mắt Quốc tế Việt – Nga.
VIỄN
THỊ
Viễn thị là một loại tật khúc xạ ít gặp hơn ở trẻ nhỏ so với cận thị
nhưng lại gây ra các rối loạn chức năng thị giác nặng nề hơn như nhược thị, lác
mắt, rối loạn chức năng thị giác hai mắt.
Thế nào là mắt viễn thị?
Mắt viễn thị là mắt thiếu lực khúc xạ
hội tụ, làm cho hình ảnh của mọi vật hội tụ ra phía sau võng mạc dẫn đến mắt
nhìn mờ ở cả khoảng cách xa lẫn gần. Để nhìn rỗ hơn, mắt luôn phải điều tiết
làm tăng lực khúc xạ để đưa hình ảnh của vật ra phía trước và nằm trên võng
mạc.
Đặc điểm của mắt viễn thị

+ Mắt viễn
thị không thể nhìn rõ các vật ở gần như khi ta đọc sách chẳng hạn. điểm cực cận
của mắt xa hơn so với mắt bình thường
+ Để cố gắng
nhìn rõ vật, mắt viễn thị luôn phải điều tiết để đưa ảnh rơi trên võng mạc. do
điều tiết liên tục, mắt viễn thị bị mệt mỏi, đau đầu , nhức mát và hay chảy nước
mắt.
+ Mắt viễn
thị nhìn các vật ở xa vô cùng vẫn phải điều tiết do điểm cực viễn không còn ở
vô cùng nữa
Nguyên nhân
+ Do giác mạc
quá dẹt
+ Do giảm độ
dài trục trước và sau của mắt
+ Giống như
cận thị, viễn thị thường do di truyền. Trẻ mới đẻ và trẻ em nhỏ tuổi thường có
xu hướng bị viễn thị nhẹ. Khi trẻ lớn lên, con mắt cũng phát triển và trở nên
dài hơn, độ viễn thị cũng sẽ giảm dần.
Biểu hiện của viễn thị
+ Viễn thị khó phát hiện hơn cận thị vì
trẻ còn nhỏ, không kêu gì về chức năng thị giác. Cha mẹ phải chú ý nhận ra
những bất thường trong sinh hoạt của trẻ để phát hiện sớm chứng viễn thị.
+ Trẻ nhỏ thường hay dụi mắt, đỏ mắt và
chảy nước mắt . Có thể xuất hiện lác mắt. Chứng lác mắt có thể là một tật đi
kèm với viễn thị, cũng có thể là một tật do viễn thị gây ra.
+ Trẻ lớn hơn có thể kêu mắt nhức mỏi
nhìn mờ do mắt luôn phải điều tiết. Tức là các cơ ở trong mắt luôn phải co kéo
đến thể thủy tinh để thể thủy tinh phồng lên làm tăng độ khúc xạ. Hậu quả của
việc điều tiết là làm mắt luôn nhức mỏi khó chịu.
+ Vì mắt trẻ phải thường xuyên điều tiết
quá độ, gây mất cân bằng giữa độ điều tiết và độ quy tụ nên mắt bị lác trong và
trẻ chỉ còn nhìn với một mắt. Kết quả là mắt bị nhược thị (không nhìn được rõ
mặc dù được chỉnh kính tối đa). Nhược thị có thể xảy ra ở cả hai mắt hoặc ở một
mắt đặc biệt ở những mắt bị viễn thị nặng hơn. Nhược thị làm giảm chức năng thị
giác 2 mắt như không nhìn thấy hình nổi, xác định khoảng cách vật không chính
xác, ảnh hưởng đến một số nghề nghiệp sau này
Điều chỉnh tật viễn
thị như thế nào?
Để điều chỉnh
tật khúc xạ, người ta có thể dùng kính đeo mắt, hoặc kính tiếp xúc (kính áp
tròng) hoặc phẫu thuật chỉnh tật khúc xạ. Các phương pháp này nhằm hội tụ các
tia sáng lên võng mạc để ảnh của vật có thể hiện rõ, nhằm bổ sung cho các thiếu
hụt về hình dạng (quá ngắn, quá dài…) của con mắt có tật khúc xạ.
Đeo kính là phương pháp dễ nhất để chỉnh tật khúc xạ, kể cả cận thị, viễn thị
và loạn thị. Đeo kính cũng có thể giúp ta bảo vệ mắt khỏi bụi bậm, các tia sáng
có hại như tia cực tím trong ánh sáng mặt trời. Các loại kính đổi màu khi ra
ánh sáng hoặc kính được bao phủ một lớp chống tia cực tím có bán ở các hiệu
kính lớn.
Đối với tật
viễn thị ta phải đeo kính hội tụ để đưa ảnh hội tụ trên võng mạc
* Vậy đeo kính thế nào cho đúng cách
Đeo kính phải đúng độ của mắt. Đeo kính ít hơn độ của mắt sẽ làm
cho người bệnh nhìn không rõ, không thoải mái, hoặc có thể gây nhược thị. Nhược
thị có nghĩa là dù cho người bệnh sau này được điều chỉnh và đeo kính đúng với
độ của mắt thì vẫn nhìn không rõ. Đeo kính cao hơn độ của mắt thường gặp trong
trường hợp cận thị có thể gây nhức mỏi mắt hoặc rối loạn điều tiết như nhức
đầu, nhức mắt, chóng mặt …
- Lắp kính phải đúng tâm, đúng khoảng cách đồng tử. Lắp kính sai,
không đúng tâm thường gây nhức mắt.
- Nên chọn gọng kính có độ rộng vừa với gương mặt, không quá rộng
hoặc quá hẹp. Gọng quá hẹp sẽ ép vào 2 bên thái dương gây cảm giác không thoải
mái. Gọng kính cần được cân chỉnh đúng, không nghiêng lệch vì sẽ gây khó chịu
hoặc nhìn mờ đối với trường hợp độ nặng hoặc loạn thị.
Hai càng kính nên có độ dài vừa đủ và được chỉnh đúng để khi đeo
kính không bị trễ ra ngoài làm cho bệnh nhân nhìn không đúng tâm hoặc không
nhìn vào kính. Nếu càng kính quá ngắn sẽ móc vào lỗ tai gây đau và mỏi. Hai bên
mũi phải được cân chỉnh đúng nếu không sẽ tạo cảm giác đau và để lại vết ấn lõm
gây mất thẩm mỹ.
* Kính sát tròng:

- Khá đắt (giá khoảng 5 -10 USD/1 cặp) , phải thay thế liên tục sau 2 tuần sử dụng
- Bất tiện, phải tháo ra lau rửa hàng ngày khi đi ngủ hoặc khi đi tắm
- Có thể
gây ra biến chứng viêm loét giác mạc, xâm nhập tân mạch vào giác mạc nếu điều
kiện vệ sinh môi trường xung quanh không đảm bảo (bụi bậm, ô nhiễm...)
Phẫu thuật chỉnh tật
khúc xạ:
Một vài năm gần đây, phẫu thuật bằng tia laser đã được sử dụng để điều chỉnh tật
khúc xạ. Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy Laser Excimer có thể thực hiện những
thao tác phẫu thuật trên giác mạc chính xác đến 0,25 micron để điều chỉnh tật
khúc xạ. Mới đây, một phương pháp mới hơn đã được áp dụng là phẫu thuật LASIK
(viết tắt chữ Laser in Situ Keratomileusis) có nhiều ưu điểm hơn so với các phẫu
thuật điều chỉnh tật khúc xạ bằng Laser khác vì nó thực hiện phẫu thuật dưới một
lớp giác mạc phủ trên để bảo vệ. Do đó, phẫu thuật LASIK ít gây tổn thương bề mặt
giác mạc hơn, ít nguy cơ thành sẹo và phù đục giác mạc hơn, giảm bớt những khó
chịu của bệnh nhân sau phẫu thuật, giảm bớt thuốc điều trị hậu phẫu, và thị lực
được phục hồi nhanh chóng hơn thường chỉ trong vòng 1 hoặc vài ngày.
Để chỉnh tật viễn thị, lại cần phải gọt mỏng bớt giác mạc ở vùng xung quanh để
phần giác mạc trung tâm dốc hơn.
Để có thể được phẫu thuật bằng tia laser chỉnh tật khúc xạ, bệnh nhân phải trên
18 tuổi và giác mạc mắt bệnh nhân phải bình thường, đồng thời số kính không
tăng trong vòng 12 tháng qua. Nếu bệnh nhân mắc một vài bệnh khác hoặc đang có
thai cũng không nên phẫu thuật bằng tia laser vội.
Mục đích của phẫu thuật Laser là để giảm sự phụ thuộc của bệnh nhân vào đôi mắt
kính, hay nói cách khác là bệnh nhân có thể bỏ kính hoặc giảm số kính mà vẫn
nhìn rõ. Vì vậy, bệnh nhân cần đến tư vấn ở các bác sỹ nhãn khoa nơi có phẫu
thuật laser chỉnh tật khúc xạ (Viện Mắt Hà Nội, Bệnh viện mắt TP Hồ Chí Minh),
và chính bệnh nhân sẽ là người quyết định cuối cùng có nên mổ bằng Laser hay
không sau khi đã bàn bạc với bác sỹ của mình.
Dù bạn có thị giác hoàn toàn bình thường
hay bị cận thị, viễn thị hoặc loạn thị, đến một ngày nào đó, bạn cũng bị lão
thị. Đây là điều tất nhiên không chừa ai cả.
LÃO THỊ
Mắt lão, một hiện tượng tự nhiên
Thủy
tinh thể, một thành phần của nhãn cầu, là một khối cứng, đàn hồi, có hình thấu
kính, giữ vai trò điều tiết, tăng độ hội tụ của mắt để đưa ảng đến võng mạc,
lúc đó, ta mới nhìn thấy rõ vật thể. Sự điều tiết là một hiện tượng phản xạ.
Khi tích tuổi, tính đàn hồi của thủy tinh thể càng ngày càng giảm và khả năng
điều tiết kém đi, người cao tuổi không trông thấy rõ những vật ở gần. Vì vậy,
khi đọc sách báo, phải mang kính hội tụ.
Sự thành
lập ảnh trên võng mô mắt bình thường
Một vật chỉ được thấy rõ, khi ảnh của vật chiếu
chính xác đúng trên võng mạc.
Khi vật ở xa, ảnh nằm ngay trên võng mạc. Thủy
tinh thể không cần điều tiết.
Trái lại, khi vật ở gần, thủy tinh thể cần điều
tiết, tăng độ hội tụ của mắt để đưa ảnh trở lại võng mạc, để được thấy rõ. Mặt
trước của thủy tinh thể cong lại nhiều, làm tăng độ hội tụ của mắt, kéo ảnh từ
đằng sau mắt trở về võng mạc.
Mắt lão
Khi bị
lão hóa, mắt thấy rõ các vật ở xa, nhưng không còn thấy thật rõ các vật ở gần,
vì thủy tinh thể mất tính đàn hồi hoặc tính đàn hồi giảm, không còn khả năng
tăng độ cong lên nhiều. Vì vậy, ảnh của các vật ở gần không nằm trên võng mạc
mà chỉ ở sau võng mạc. Người có mắt lão thấy mờ các vật ở gần mắt.
Lão thị là một trạng thái xảy ra ở mắt khi có biểu hiện giảm
sút khả năng điều tiết của mắt, dẫn đến khả năng khi tập trung vào vật thể bị
giảm sút, giống như hiện tượng tóc bạc và các nếp nhăn da.
Người
ta thường cho rằng
LÃO THỊ chính là VIỄN THỊ. Điều này không đúng. Lão thị là một triệu chứng gây
ra bởi quá trình lão hóa tự nhiên của cơ thể, còn viễn thị là một tật khúc xạ
có thể mắc từ khi còn nhỏ tuổi.
Nhóm nguy cơ
Tất cả mọi người
đều bị lão thị hầu hết từ tuổi 40 trở đi, đôi khi sớm hơn hoặc muộn hơn. Cơ chế
chính xác của chứng lão thị chưa được biết đến chắc chắn, nhưng thể hiện rõ
ràng nhất qua sự xơ cứng của thuỷ tinh thể làm giảm sự đàn hồi. Nhưng chắc chắn
một điều là cùng với năm tháng, thị lực nhìn gần sẽ
ngày càng kém đi.
Thủy tinh thể qua các lứa tuổi
Trong bụng mẹ, thủy tinh thể
của thai nhi được tưới máu. Sau khi sinh ra, nó được các mạch máu nuôi dưỡng.
Vì vậy, cận điểm (khoảng cách tối thiểu, mà mắt trông thấy rất rõ) tăng dần với
sự tích tuổi: từ 5cm lúc trẻ mới sinh, đến 10cm lúc 20 tuổi, 12,5am lúc 30 tuổi
và 25cm lúc 40 tuổi. Đến 50 tuổi, chức năng vị giác biểu lộ vài dấu hiệu mệt mỏi,
cận điểm là 50cm. Đến 70 tuổi là 2m. Bình thường, sách báo được đặt cách mắt
khoảng 30 – 40cm, người 45 tuổi không còn thấy rõ.
Thật ra, thủy tinh thể bắt đầu lão hóa từ khi mới
sinh.
Khi mắt lão, đọc sách báo rất khó khăn cũng
không xỏ kim được vì không còn thấy rõ. Cần phải tăng cường ánh sáng để đọc một
địa chỉ hay một số điện thoại ghi trên giấy.
Mắt lão hóa dần dần: lúc đầu chỉ cần tăng ánh
sáng, nhưng dần dần đọc sách báo làm mỏi mắt, gây nhức đầu. Đến 70 tuổi, sự lão
hóa mắt được ổn định, không tăng nữa. Người có mắt lão vẫn thấy rõ khi nhìn xa
(vì lúc đó, mắt không cần điều tiết). Mắt lão chỉ là một vấn đề quang học,
không tạo nguy cơ xuất hiện bệnh mắt nào cả.
Người cận thị cũng bị mắt lão. Mắt cận thị mất
khả năng điều tiết cùng một cách và cùng thời điểm như những người khác. Do người
cận thị thấy rõ khi nhìn gần, không cần điều tiết, chỉ thấy không rõ khi nhìn
xa, cho nên họ nhận thấy các biểu hiện của mắt lão trễ hơn, lúc 60 tuổi hay hơn
nữa. Cũng vì lẽ đó, một số người bị cận thị khi còn trẻ, lúc cao tuổi, họ có thể
đọc sách báo mà không cần mang kính cận. Nhưng các cụ cần có kính để nhìn xa.
Dấu hiệu lão thị
-
Không nhìn thấy rõ vân tay, nhìn không thấy rõ chi tiết các vật
ở trong tầm tay như đồng hồ, điện thoại di động... Muốn nhìn rõ phải đưa ra xa
mắt và ngày càng cần xa hơn, cần có ánh sáng nhiều hơn, mắt phải nheo lại...
-
Khó nhìn rõ trong ánh sáng mờ, có vấn đề khi nhìn vào các vật
thể nhỏ hoặc chữ nhỏ - thường xảy ra từ đội tuổi 40 – 50.
-
Làm công việc nhìn gần, đọc sách hoặc làm việc với máy tính không được lâu, phải dừng
lại nghỉ vì thấy mỏi mắt chảy nước mắt, nhức đầu...
-
Khả năng nhìn vật thể ở gần suy giảm dần theo tuổi: khả năng
điều tiết khoảng 20 dioptres (khả năng nhìn ở mức 50mm) của một đứa trẻ 10 tuổi,
10 dioptres ở tuổi 25 (100 mm), và chỉ còn 0,5 dioptres ở tuổi 60.
Triệu chứng
Các triệu chứng đầu tiên hầu hết biểu hiện qua:
-
Việc gặp khó khăn trong việc đọc chữ in nhỏ, đặc biệt trong
điều kiện ánh sáng yếu
-
Mỏi mắt khi đọc trong thời gian dài
-
Khoảng cách nhìn gần bị mờ hoặc nhòe trong giây lát.
-
Bệnh nhân lão thị sẽ cảm thấy tay trở nên “quá ngắn” để giữ
tài liệu đọc ở một khoảng cách thoải mái.
Người bình thường có thể nhìn rõ cả khi khoảng cách
nhìn xa và nhìn gần được là nhờ có chức năng điều tiết của mắt. Điều tiết là cơ
chế để mắt thay đổi công suất khúc xạ bằng cách thay đổi hình dạng thuỷ tinh thể
để giúp cho hình ảnh của vật luôn hiện đúng trên võng mạc. Ở độ tuổi từ 40 trở
đi, khả năng điều tiết giảm dần nên không thể nhìn rõ khi nhìn gần và phải đưa
ra xa mắt để đọc hay nhìn vật thể rõ ràng.
Làm rõ nguyên nhân nhìn mờ
Tự dưng phát hiện ra mình nhìn kém quả là điều không
dễ chịu. Người đeo kính thường hoặc kính áp tròng từ nhỏ thì lại quen với nó rồi.
Những người khác khó chấp nhận hơn, thậm chí đôi khi còn phủ nhận khiếm khuyết
này. Mỏi mắt cũng có nguy cơ dẫn đến đau đầu. Tốt hơn hết là đến khám bác sỹ
nhãn khoa để làm một loạt xét nghiệm tổng thể: kiểm tra khả năng đọc xa và gần
để đo mức độ lão thị, đo nhãn áp để phát hiện glaucome (nếu có), kiểm tra đáy mắt
để đánh giá tình trạng các mạch máu. Đừng quên tìm xem có khiếm khuyết gì về hội
tụ thường xuất hiện vào thời điểm đó, khiến cho việc đọc cũng trở nên khó khăn
hơn.
Vấn đề dùng kính: mới đầu sẽ có sự dao động
về kính.
Cứ 2 đến 3 năm phải thay kính một lần. Thời kỳ đầu, lão thị tiến triển
rất nhanh, nhất là trong độ tuổi từ 42-47. Lão thị tiếp tục tăng, đến tuổi
55-60 thì ổn định.
Kính lúp
Để đọc, viết hay khâu vá…một số người chọn kính lúp.
Mọi người nghĩ gì về sự lựa chọn này?
Ưu điểm: tiện dụng, đôi khi hơi kỳ cục, không đắt lắm…Lúc
nào cũng có thể mang theo trong túi và nếu nhỡ có mất thì cũng không tiếc lắm.
Nhược điểm: kính này hiệu chỉnh theo cùng một cơ chế
, do đó không ai có thể nhìn kính lúp bằng hai mắt một lúc. Ngoài ra, chất lượng
kính lúp đôi khi cũng chỉ ở mức trung bình. Tốt hơn là nên có một đôi kính do
bác sỹ mắt kê đơn để nhìn được tốt hơn. Đây sẽ là sự thay thế lý tưởng trong
trường hợp kính lúp bị hỏng.
Kính hiệu chỉnh dần đều
Kính hiệu chỉnh dần đều cải thiện cả nhìn xa và nhìn
gần. Sự hiệu chỉnh thay đổi từ cao xuống thấp, vượt qua vùng trung tâm của kính
một cách nhẹ nhàng. Ngày nay, kính hiệu chỉnh dần đều vận dụng tất cả các phát
minh có thể (điều trị chống va , bụi bẩn và tia sáng mặt trời). Người ta còng
phát triển các kỹ thuật nhằm tăng độ tập trung của kính trước đồng tử. Ví dụ
như phương pháp PPS (Personal Progressive Synchrone), trong máy vi tính các qui
luật chuyển động của mắt nhằm tìm ra điểm tập trung tốt nhất.
Ưu điểm: không phải đổi kính để đọc, xem TV,…thậm chí
cả khi lái xe.
Nhược điểm: tầm nhìn hai bên, hơi lộn xộn một chút, cảm
giác hơi tròng trành mỗi khi ta cử động đầu. Kỹ thuật hiệu chỉnh, nhất là với
các kính toàn cảnh, cho phép thích ứng trong đại đa số các trường hợp lão thị,
nhất là nếu bắt đầu dùng kính sớm. Rất lý tưởng với những ai muốn nhìn thật rõ
mọi vật.
Kính có trường nhìn sâu
Những kính “bán dần đều” hiệu chỉnh ở khoảng cách gần
hơn. Trường nhìn sâu có thể từ 20cm đến 2m.
Ưu điểm: vật nhìn thấy ở hai bên không bị biến dạng,
do đó không còn cảm giác chòng chành .
Nhược
điểm: những kính này bị cấm sử dụng khi lái xe.
Lý tưởng cho những ai nhìn xa còn tốt và dùng vi tính nhiều. Nó sẽ giúp việc
đeo kính hiệu chính dần đều được suôn sẻ.
Kính hai
tròng
Kính này có một ranh giới nhìn thấy rất rõ giữa phần
phía trên và phía dưới. Tại đây có đặt một viên bi để nhìn gần, trông không được
thẩm mỹ cho lắm. Kính này thường chỉ những người quen dùng mới dùng được.
Kính áp tròng
Kính áp tròng mới được dùng trong lão thị hai mươi
năm trở lại đây. Những kỹ thuật mới và chuyên dụng được đem ra cải thiện việc
nhìn gần cho con người .
Kính tiếp xúc loại đồng nhất
Kính tiếp xúc loại đồng nhất
Cơ chế nhìn đồng nhất cho phép nhìn được cả xa và gần.
Trong trường hợp này, không có sự gia tăng từ cao xuống thấp. Kính tiếp
xúc loại đồng nhất có thể được sắp xếp theo cơ chế hướng tâm, như hướng vào một
tâm điểm. Vùng giữa là để nhìn gần, vùng ngoại vi để nhìn xa. Với sự đa dạng
như vậy, nó cho phép các nhà nhãn khoa chuyên sâu vào lĩnh vực kính tiếp xúc học,
lựa chọn tốt nhất việc chỉnh quang.
Ưu điểm: kính tiếp xúc không hề gây ra việc
nhìn chuếnh choáng, đem lại sự hiệu chỉnh tuyệt hảo.
Nhược điểm: trong hợp nhất thị giác, chính não bộ, chứ
không phải là mắt, đã chọn lựa những hình ảnh mà ta quan tâm trong số những
hình ảnh được chiếu vào võng mạc. Chúng ta cần phải lựa chọn phần hình ảnh
hữu ích, loại bỏ phần còn lại. Công việc của trôc liên kết mắt–não đòi hỏi phải
có thời gian để thích ứng khoảng 7 đến 10 ngày. May thay, tình trạng này cũng
chóng qua thôi.
Lý tưởng cho những ai chuộng tính thẩm mỹ
Nhìn một mắt hay nhìn hai mắt?
Cơ chế rất đơn giản: ở một bên mắt, người ta đặt một
kính tiếp xúc được hiệu chỉnh để nhìn xa. Ở mắt kia, một kính để nhìn gần. Não
bộ sẽ chọn hình ảnh mà ta quan tâm (phải hoặc trái).
Ưu điểm: sau một chút lộn xộn lúc ban đầu, việc nhìn
một mắt diễn ra rất tốt bởi vì kính tiếp xúc đã thích nghi theo sự chọn lựa của
tự nhiên. Thông thường, chúng ta có một mắt chuyên để nhìn gần và mắt kia,
chuyên để nhìn xa.
Nhược điểm: phương pháp này không thích hợp với người
bị lão thị quá mức.
Kính tiếp xúc kiểu nhìn luân phiên: hiếm khi dùng, kính
tiếp xúc loại này với chức năng hơi giống kính hai tròng, nhưng độ nét thì khác
biệt đáng kể. Nhìn xa ở phần trên, nhìn gần ở phần dưới. Chúng chỉ có dưới dạng
kính bán cứng, nhìn chung khó dung nạp hơn các loại kính tiếp xúc khác.
Phẫu thuật
Thực tế là có tồn tại các phương pháp phẫu thuật để
điều trị lão thị. Với quan điểm thận trọng, thì không nên dùng phẫu thuật để điều
trị lão thị. Nói cách khác, chúng ta không chỉ có một kiểu phẫu thuật mà có những
phương pháp phẫu thuật cho thật phù hợp với từng người.
Nhìn một mắt hay nhìn đa tiêu cự:
Cũng như các loại kính tiếp xúc khác, có rất nhiều sự
lựa chọn. Trong loại nhìn bằng một mắt, độ hiệu chỉnh khác biệt theo từng mắt.
Phẫu thuật viên sẽ đặt thiết bị hoặc dùng laser để đạt được sự thay đổi cần thiết
ở mắt phải hoặc mắt trái, nhằm hiệu chỉnh lão thị hay rối loạn về thị giác.
Cần lưu ý rằng việc đeo thử kính tiếp xúc là cần thiết
để kiểm tra tính tương thích của nhìn đơn hay đa tiêu cự.
Phẫu thuật dành cho những ai?
Ai thích hợp với loại phẫu thuật này? Chính là những
người đeo kính thường xuyên. Người bị cận thị nặng, loạn thị và nhất là viễn thị,
bắt buộc phải nhìn gần và nhìn xa bằng kính. Laser điều chỉnh tốt viễn thị và
điều trị đồng thời lão thị mà không hề gây ra thêm bất cứ rối loạn thị giác
nào. Phẫu thuật vẫn là khả năng được tính đến, nhưng thường dành cho những người
ưa hoạt động và những ai hiểu rằng phẫu thuật không thể nào mang lại cho họ một
đôi mắt như trẻ thơ.
Ở tuổi nào?
Vấn đề này tuỳ thuộc vào sự chọn lựa và kỹ thuật phẫu
thuật. Với những ai thích phẫu thuật trước khi lão thị bước vào giai đoạn bình ổn
(từ 53-55 tuổi), phẫu thuật viên sẽ quyết định mức độ hiệu chỉnh, có tính đến độ
giảm sút thị lực trong tương lai,vốn có thể tiên lượng được.
Những biến chứng tối thiểu
Rất hiếm khi có biến chứng, nhưng vẫn có thể có:
viêm, nhiễm trùng, lâu lành sẹo. Nguy cơ khác nhau, tuỳ thuộc vào việc phẫu thuật
đó nằm ở trên bề mặt, ví dụ như trong phẫu thuật laser, hay trong các ca cấy
ghép bên trong con mắt. Việc can thiệp, bằng cách đặt kính tiếp xúc trong mắt hệ
quả thừa hưởng của hai mươi năm kinh nghiệm điều trị phẫu thuật bệnh đục thể
thuỷ tinh.
hơi nghiêng về sinh học
Trả lờiXóaVới lại sắp tới bộ sẽ thay đổi các môn học thành tích hợp nên nhóm mình cũng muốn có chút tích hợp vào trong này.
XóaCảm ơn bạn Diễm nha!
Trả lờiXóanhóm của bạn làm khá tốt: phần sản phẩm học sinh: nội dung rất đầy đủ nhưng về kiến thức vật lý bạn đưa vào hơi ít.
Trả lờiXóaCám ơn nhận xét của bạn Mi Soo nha. Nhóm mình cũng thấy ít thật, nhưng bài này là thế bạn ơi. Chỉ có một số phần là vật lý . Còn lại là các nguyên nhân, biện pháp khắc phục. Nhóm mình muốn sau dự án này học sinh biết được nguyên nhân và cách phòng tránh khắc phục để bảo vệ mắt tốt hơn thôi.
Trả lờiXóaMong nhận được nhiều nhận xét góp ý của các bạn.
Học sinh được chia làm ba nhóm đi tìm hiểu thì sẽ có 3 sản phẩm của 3 nhóm khác nhau chứ?
Trả lờiXóaHinh như thiếu phần lời khuyên của bác sĩ về cách chăm sóc mắt cho người: chưa bị cận, đã bị cận, loạn, viễn, lão.