Chào mừng bạn đến với 3-CHANGNGULAM.BLOGSPOT.COM!

Mẫu sản phẩm học sinh

6 nhận xét
CẬN THỊ

Cận thị ( tên khoa học là MIOPIA) là hiện tượng rối loạn thị giác, khi đó con người chỉ có khả năng phân biệt các chi tiết nhỏ của các vật và hình ảnh nằm trong cự ly gần, cũng như chính những vật đó khi nằm ở cự ly xa sẽ được ghi nhận lại một cách lờ mờ không rõ nét. Vật càng nằm ở cự ly xa bao nhiêu thì mắt người nhìn thấy vật đó càng kém bấy nhiêu.

 

Tính chất vật lý của sự rối loạn khúc xạ ở bệnh cận thị rất đơn giản: Hình ảnh của vật nhìn thấy không được hội tụ trên võng mạc như mắt bình hường mà là hội tụ ở trước võng mạc, vì vậy mà người cận thị khi nhìn vật ở cự ly xa sẽ không rõ nét.

Hiện tượng này xảy ra hoặc có thể do: 

·             Giác mạc và thể thuỷ tinh làm khúc xạ ánh sáng quá mạnh.

·         Trục nhãn cầu của người bệnh dài hơn bình thường nên võng mạc bị đẩy lùi ra xa hơn tiêu điểm. Bình thường, trục nhãn cầu dài khoảng 23 mm. Ở những người cận thị,số đo này có thể là 30 mm hoặc dài hơn. Khi trục nhãn cầu dài hơn mỗi milimét sẽ làm cho số độ cận tăng thêm 3 D.

 
CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN CẬN THỊ

Có nhiều nguyên nhân gây cận thị. Những nguyên nhân chính có thể kể đến là : 

- Đọc sách hoặc làm việc phải dùng mắt nhìn chăm chú thời gian dài ở khoảng cách gần, trong điều kiện ánh sáng kém.
- Yếu tố di truyền, do một số đặc điểm cấu trúc nhãn cầu hoặc khác biệt về trao đổi chất trong cơ thể.
- Củng mạc yếu do cấu trúc đặc biệt của các sợi mô liên kết của bệnh nhân nên không giữ được thành nhãn cầu ổn định.
- Do cơ thể mi kém phát triển, không đủ khả năng điều tiết để làm cho con mắt thích ứng với các cự ly nhìn khác nhau. Cơ thể mi yếu phải gắng sức thường xuyên sẽ làm tăng nguy cơ bị cận thị.
Trong trường hợp cận thị không phải ở dạng bẩm sinh mà thường xuất hiện nhiều hơn ở trẻ em ở độ tuổi từ 10 -16 tuổi trong quá trình phát triển của nhãn cầu mắt.
 Đặc thù nhất định về giải phẫu học về mắt, các yếu tố mang tính di truyền , đồng thời cận thị cũng có thể được gây ra bởi các nguyên nhân gây hại như stress, mắt làm việc quá mức, do mắc bệnh về mắt nói chung, do môi trường ô nhiễm nặng và nhiều nguyên nhân khác.

BIỂU HIỆN CỦA CẬN THỊ

Bình thường, cận thị xảy ra khi trẻ còn nhỏ và dễ dàng nhận thấy ở tuổi đến trường. Trẻ nhìn kém những vật ở xa, không phân biệt được chữ,số trên bảng và phải cố gắng đến gần tivi hoặc ngồi ghế đầu trong rạp chiếu phim. Khi cần nhìn rõ các vật có thể thấy những người cận thị hay nheo mắt. Ngoài thị lực nhìn xa giảm, những người bị cận thị còn nhìn kém lúc sẩm tối nên buổi chiều tối họ đi lại trên phố cũng như lái ô tô kém hơn.  Để nhìn tốt hơn, người bị cận thị phải đeo kính tiếp xúc hoặc đeo kính cận. Đôi khi họ phải thay mắt kính. Cần biết rằng đeo kính không giúp làm ngừng cận thị tiến triển mà chỉ điều chỉnh được  số kính. Nếu thị lực giảm, thường cần phải đổi số kính cao hơn do tăng độ cận.

CÁC DẠNG CẬN THỊ

1/ Cận thị đơn thuần hay còn gọi là cận thị khúc xạ.


Xảy ra do lực khúc xạ của mắt quá lớn, (do lực khúc xạ của giác mạc hoặc thể thủy tinh quy định) trong khi chiều dài trục nhãn cầu bình thường.
Có độ cận thị thường dưới 6D và không có tổn thương đáy mắt. Loại cận thị này hay bắt đầu ở tuổi đi học.

Sự phát triển nhanh hay chậm của cận thị là tùy thuộc vào lứa tuổi bắt đầu bị cận. Nếu dưới 8 tuổi bị cận thì mỗi năm sẽ tăng lên 1D. Nếu từ 8 đến 10 tuổi mới bắt đầu bị cận thì mỗi năm nặng thêm 0.7D. Trong những mắt cận bắt đầu từ sau 10 tuổi thì cứ 3 năm phát triển thêm 1D. Dù cận thị bắt đầu ở lứa tuổi nào, cũng phát triển trong vòng 3 hoặc 4 năm thì ngừng, nhưng sau đó, có thể có những đợt phát triển mới làm cho mắt càng nặng, như trong thời kỳ thai nghén, khi mắc một bệnh nặng như lao, thương tật…
Cận thị biểu hiện chủ yếu bằng thị lực giảm khi nhìn xa, còn nhìn gần vẫn bình thường. Một người cận thị cảm thấy không còn đọc rõ chữ trên bảng nữa, đi xem chiếu bóng trông hình ảnh rất mờ, khám mắt thấy thị lực nhìn xa giảm sút trầm trọng. Thật vậy, với mỗi mức độ cận thị sẽ tương ứng với một thị lực khoảng
Độ cận thị  -0.5D   có thị lực               4/10
Độ cận thị  -1D      có thị lực              2/10 
Độ cận thị  -1.5D   có thị lực               1/10
Độ cận thị  >2D     có thị lực             <1/10
Muốn nhìn rõ hơn, người cận thị luôn luôn nheo mắt. Tật nheo mắt này cho phép chẩn đoán dễ dàng tật cận thị. Ngược với nhìn xa, người cận thị nhẹ nhìn gần rất tốt, họ đọc sách với chữ rất nhỏ mà không cần mang kính, miễn sao có khoảng cách đúng tầm.

Nguyên nhân:


Cho đến nay vẫn còn một số người cho rằng làm việc phải nhìn gần nhiều sẽ dễ bị cận thị. Dẫn chứng là đối với học sinh thì cấp 3 nhiều cận thị hơn cấp 2, cấp 2 nhiều hơn cấp 1. Một dẫn chứng khác là ở người lao động trí óc hay ở những người làm việc phải nhìn gần (thợ đồng hồ, công nhân in…) thì tỉ lệ cận thị cao hơn nhiều so với những người khác. 

Tuy vậy nhưng càng ngày càng có nhiều người không thừa nhận những nguyên nhân như trên. Họ cho rằng nếu các em ở cấp 3 cận thị nhiều hơn cấp 2 và cấp 2 nhiều hơn cấp 1 là vì cận thị thường bắt đầu xuất hiện sau 10 tuổi. Nói cận thị học đường, chính là ý nói cận thị phát sinh trong tuổi đương đi học, là tuổi phát triển của các em, mà không có nghĩa học đường là nguyên nhân của cận thị. Mặt khác, chúng ta cũng thấy có những trường hợp cận thị bắt đầu rất sớm (trước 8 tuổi) và phát triển đến 11 tuổi thì ngừng.
Ngày nay, người ta có xu hướng nhấn mạnh đến yếu tố di truyền; người ta có nhận xét là tỷ lệ cận thị rất thay đổi tùy theo giống người. Tỷ dụ như người Anhđiêng ở Mêhicô không bao giờ bị cận thị, dân tộc Palinêgrít ở Châu Phi tỷ lệ bị cận thị rất thấp (0.14%). Ngược lại, các giống người Anhđu (Châu Á), Đức (Châu Âu) bị cận thị khá nhiều.

Thử kính mắt cận thị


Bệnh nhân cũng đứng cách bảng thị lực 5m, đặt trước từng mắt, kính -1D. Nếu mắt chính thị hay viễn thị có lực điều tiết tốt (ở người trẻ) thì thị lực gần như không bị ảnh hưởng, chỉ giảm đi khi lực điều tiết kém (người lớn tuổi). Nhưng nếu là cận thị thì thị lực sẽ tăng rõ. Ta lần lượt cho những kính phân kỳ có số cao dần, thị lực sẽ tăng mãi cho đến mức tối đa (có thể 10/10 hay hơn nữa). Nếu ta cứ tiếp tục tăng số kính lên thì có thể thị lực vẫn cao như vậy ở vài số tiếp sau, rồi sẽ tụt xuống. Độ cận thị là: kính phân kỳ có số nhỏ nhất cho thị lực nhìn xa cao nhất.

Thí dụ: Một mắt có độ cận thị là -4D, ta lần lượt cho các số kính từ -1, -2, -3 rồi -4. Với kính -4D sẽ cho thị lực cao nhất tới 10/10. Nếu ta tăng số kính lên nữa như -5, -6 thị lực có thể vẫn 10/10, như vậy là ta đã biến con mắt cận thị trở thành viễn thị, nhưng nhờ có sức điều tiết tốt, nên mắt vẫn nhìn rõ. Vậy số kính đo độ cận thị đúng là -4D.
Tuy vậy, phương pháp trên vẫn dựa vào sự nhận thức chủ quan của bệnh nhân là chính. Muốn xác định thật chính xác mức độ cận thị, người bệnh cần được khám kỹ lưỡng đầy đủ một quy trình chuẩn của Bác sĩ chuyên khoa mắt, đặc biệt là đối với trẻ em.

Nguyên tắc điều chỉnh cận thị bằng kính:

- Không mang kính có làm cho cận thị nặng thêm không?


Rõ ràng là không. Nhiều trường hợp mang kính thường xuyên, nhưng không hề làm ngừng quá trình phát triển của cận thị và ngược lại những trường hợp khác không đeo kính, nhưng cận thị vẫn ổn định.

- Mang kính có làm cận thị nặng lên không?


Không. Chỉ khi nào dùng kính không thích hợp thì khi bỏ kính, mắt sẽ có cảm giác như nặng lên.

Tóm lại, kính không có tác dụng gì đối với sự tiến triển của cận thị. Nhưng kính lại rất cần thiết cho sự phát triển hài hòa của thị giác 2 mắt và sự phối hợp động tác điều tiết – quy tụ. Bởi vậy, rất nên và phải dùng kính đối với mắt cận thị. Nhưng không nên đeo thường xuyên. Đối với trẻ em, chỉ cần đeo kính trong lớp học để dễ dàng nhìn bảng và khi nhìn gần là lúc tập luyện cho động tác phối hợp giữa điều tiết và quy tụ. Đối với người lớn thì phải xét đến công việc cụ thể của từng người mà sử dụng kính cho thích hợp. Một điều cần phải hết sức chú ý là không được đeo kính quá số, vì như vậy sẽ gây ra một sự co kéo thường xuyên của cơ thể mi để trung hòa phần kính quá số, sẽ gây mỏi mắt, nhức đầu.

2/ Cận thị bệnh hay còn gọi là cận thị trục

Xảy ra do trục nhãn cầu quá dài, trong khi lực khúc xạ của mắt bình thường. Trục nhãn cầu bị dài ra nguyên nhân là do cấu trúc của thành nhãn cầu bị dãn mỏng. Loại cận thị này thường có tính chất gia đình và thường xảy ra rất sớm ngay khi trẻ còn nhỏ tuổi, chưa đi học. Cận thị tiến triển rất nhanh, làm thị lực giảm sút nhiều, đồng thời làm võng mạc bị dãn mỏng dễ dẫn tới nguy cơ thoái hóa hắc võng mạc, rách võng mạc, thậm chí gây bong võng mạc dẫn tới mù lòa. 
Cận thị bệnh thường >-7D, có khi tới -20 hoặc -30D và nhất là có tổn hại ở đáy mắt.
Thị lực rất thấp khi chưa điều chỉnh bằng kính. Dù với kính thích hợp nhất, thị lực thường chỉ đạt tới 4 – 5/10, có khi chỉ 1/10 hoặc 2/10. 
Do nhãn cầu dài nên mắt hơi lồi, nhận thấy rất rõ khi cận thị 1 bên.
Cận thị bệnh tiến triển theo từng đợt cấp diễn xen giữa những giai đoạn dài ổn định. Khi bệnh nặng lên nhanh chóng, người ta gọi là cận thị ác tính. Cận thị tăng lên từng năm, đôi khi khó xác định là chỉ do cận thị hay còn có sự tham gia của thể thủy tinh bị xơ cứng.
Thị lực giảm dần đi và càng ngày càng khó điều chỉnh bằng kính. Các chức năng khác của mắt cũng suy giảm rất sớm; thị trường bị tổn hại rất nhiều, mắt thích nghi trong tối rất kém. 
Ở đáy mắt có nhiều đám thoái hóa hắc võng mạc rất điển hình, những đám này tròn trắng hay nhiều vòng. Đó là củng mạc được nhìn qua võng và hắc mạc đã bị teo. Lúc đầu, những đám này nhỏ, sau tập trung lên thành một mảng rộng. Thường gặp những tổn hại này ở cực sau, hình thái khá giống với một sẹo của viêm hắc mạc. Vì vậy người ta thường hay gọi là viêm hắc võng mạc cận thị.
Trong khi tiến triển, cận thị còn kèm theo chảy máu, nhất là ở vùng hoàng điểm. Vết máu rút đi nhanh chóng và để lại một vệt đen gọi là vệt Fuchs.
Về biến chứng thì thường gặp nhất và cũng khốc liệt nhất là bong võng mạc, nếu không xử trí kịp thời và đúng sẽ mù vĩnh viễn. Một điều cần hết sức lưu ý là bệnh glocom phát triển ở trên những mắt này rất dễ bị bỏ qua vì sự mềm giãn của củng mạc làm cho nhãn áp như không cao, đến khi mắt mù mà vẫn tưởng nguyên nhân chỉ là cận thị.

Điều trị cận thị

Người cận thị nhìn xa rõ khi được chỉnh kính phân kỳ (kính – điốp hay gọi là kính cận thị).
Kính gọng là một trong những biện pháp cần thiết để điều chỉnh tật cận thị. Tuỳ theo mức độ cận thị, bệnh nhân cần đeo kính thường xuyên hay chỉ cần đeo kính khi nhìn xa (các bác sĩ nhãn khoa sẽ tư vấn cụ thể cho từng trường hợp). Nếu bệnh nhân cận thị được chỉnh kính đúng, thích hợp tiến triển cận thị sẽ chậm hơn.
Ngoài kính gọng bệnh nhân có thể dùng kính tiếp xúc, phương pháp này có lợi ích mỹ quan. Tuy nhiên người sử dụng phải đặc biệt thận trọng giữ vệ sinh nếu không sẽ tổn hại đến giác mạc có thể gây viêm hoặc loét giác mạc.
Đeo kính cận thị không thể làm dừng lại mức độ tăng số kính mà nó chỉ có thể điều chỉnh mức độ quang học. Nếu thị lực kém đi và cần tăng số kính cận thị có nghĩa là cận thị tiến triển (độ cận thị năng thêm).
Ngoài việc chỉnh kính, để hạn chế cận thị tiến triển, giữ ổn định số kính cận thị và đề phòng các biến chứng cận thị như xuất huyết dịch kính, võng mạc, bong võng mạc … dẫn đến giảm thị lực trầm trọng, bệnh nhân cần được điều trị bằng một số phương pháp thích hợp làm hạn chế tăng số kính cận thị tiến đến ổn định độ cận thị và đề phòng biến chứng cận thị.
Vật lí trị liệu: tác động làm phục hồi chức năng điều tiết mắt, tăng cường tuần hoàn cơ thể mi, võng mạc, tăng cường trao đổi chất, tăng cường trương lực cơ như : Luyện tập điều tiết trên máy, thuốc tác động lên điều tiết, dùng sóng siêu âm, điện, điện tử, lazer năng lượng thấp.

Phẫu thuật:

- Đối với trẻ em cận thị có số kính tăng nhanh (trên 1,0 điốp/ năm) cần can thiệp phẫu thuật ghép độn củng mạc để hạn chế mức độ tăng số kính và giãn lồi củng mạc.
- Đối với bệnh nhân trên 18 tuổi có độ cận thị ổn định có thể phẫu thuật điều trị cận thị bỏ kính bằng laser excimer (LASIK).
Cận thị tiến triển (tăng số kính) – đây không chỉ là đơn thuần rối loạn chức năng thị giác có thể chỉnh kính mà là một biểu hiện bệnh lý có biến chứng tương đối nguy hiểm. Phương pháp dùng laser hồng ngoại năng lượng thấp có độ dài bứơc sóng 1,3 micromet tác động gián tiếp xuyên qua củng mạc kích thích cơ thể mi kết hợp luyện tập điều tiết trên máy là một trong những phương pháp mới, hiện đại điều trị tiến triển cận thị ở trẻ em dựa trên nguyên lý: Tăng cường tuần hoàn, tăng cường trao đổi chất của cơ điều tiết – đang được áp dụng điều trị tại Bệnh viện Mắt Quốc tế Việt – Nga.

VIỄN THỊ
Viễn thị là một loại tật khúc xạ ít gặp hơn ở trẻ nhỏ so với cận thị nhưng lại gây ra các rối loạn chức năng thị giác nặng nề hơn như nhược thị, lác mắt, rối loạn chức năng thị giác hai mắt.

Thế nào là mắt viễn thị?
Mắt viễn thị là mắt thiếu lực khúc xạ hội tụ, làm cho hình ảnh của mọi vật hội tụ ra phía sau võng mạc dẫn đến mắt nhìn mờ ở cả khoảng cách xa lẫn gần. Để nhìn rỗ hơn, mắt luôn phải điều tiết làm tăng lực khúc xạ để đưa hình ảnh của vật ra phía trước và nằm trên võng mạc.

Đặc điểm của mắt viễn thị

+ Mắt viễn thị là mắt có trục trước sau ngắn hơn bình thường hoặc có lực khuất triết quá yếu, do đó các tia sáng sau khi bị khuất triết sẽ hội tụ ở sau võng mạc
+ Mắt viễn thị không thể nhìn rõ các vật ở gần như khi ta đọc sách chẳng hạn. điểm cực cận của mắt xa hơn so với mắt bình thường
+ Để cố gắng nhìn rõ vật, mắt viễn thị luôn phải điều tiết để đưa ảnh rơi trên võng mạc. do điều tiết liên tục, mắt viễn thị bị mệt mỏi, đau đầu , nhức mát và hay chảy nước mắt.
+ Mắt viễn thị nhìn các vật ở xa vô cùng vẫn phải điều tiết do điểm cực viễn không còn ở vô cùng nữa

Nguyên nhân
+ Do giác mạc quá dẹt
+ Do giảm độ dài trục trước và sau của mắt
+ Giống như cận thị, viễn thị thường do di truyền. Trẻ mới đẻ và trẻ em nhỏ tuổi thường có xu hướng bị viễn thị nhẹ. Khi trẻ lớn lên, con mắt cũng phát triển và trở nên dài hơn, độ viễn thị cũng sẽ giảm dần.

Biểu hiện của viễn thị
+ Viễn thị khó phát hiện hơn cận thị vì trẻ còn nhỏ, không kêu gì về chức năng thị giác. Cha mẹ phải chú ý nhận ra những bất thường trong sinh hoạt của trẻ để phát hiện sớm chứng viễn thị.
+ Trẻ nhỏ thường hay dụi mắt, đỏ mắt và chảy nước mắt . Có thể xuất hiện lác mắt. Chứng lác mắt có thể là một tật đi kèm với viễn thị, cũng có thể là một tật do viễn thị gây ra.
+ Trẻ lớn hơn có thể kêu mắt nhức mỏi nhìn mờ do mắt luôn phải điều tiết. Tức là các cơ ở trong mắt luôn phải co kéo đến thể thủy tinh để thể thủy tinh phồng lên làm tăng độ khúc xạ. Hậu quả của việc điều tiết là làm mắt luôn nhức mỏi khó chịu.
+ Vì mắt trẻ phải thường xuyên điều tiết quá độ, gây mất cân bằng giữa độ điều tiết và độ quy tụ nên mắt bị lác trong và trẻ chỉ còn nhìn với một mắt. Kết quả là mắt bị nhược thị (không nhìn được rõ mặc dù được chỉnh kính tối đa). Nhược thị có thể xảy ra ở cả hai mắt hoặc ở một mắt đặc biệt ở những mắt bị viễn thị nặng hơn. Nhược thị làm giảm chức năng thị giác 2 mắt như không nhìn thấy hình nổi, xác định khoảng cách vật không chính xác, ảnh hưởng đến một số nghề nghiệp sau này

Điều chỉnh tật viễn thị như thế nào?

Để điều chỉnh tật khúc xạ, người ta có thể dùng kính đeo mắt, hoặc kính tiếp xúc (kính áp tròng) hoặc phẫu thuật chỉnh tật khúc xạ. Các phương pháp này nhằm hội tụ các tia sáng lên võng mạc để ảnh của vật có thể hiện rõ, nhằm bổ sung cho các thiếu hụt về hình dạng (quá ngắn, quá dài…) của con mắt có tật khúc xạ.


            *Kính đeo mắt:



Đeo kính là phương pháp dễ nhất để chỉnh tật khúc xạ, kể cả cận thị, viễn thị và loạn thị. Đeo kính cũng có thể giúp ta bảo vệ mắt khỏi bụi bậm, các tia sáng có hại như tia cực tím trong ánh sáng mặt trời. Các loại kính đổi màu khi ra ánh sáng hoặc kính được bao phủ một lớp chống tia cực tím có bán ở các hiệu kính lớn.

Đối với tật viễn thị ta phải đeo kính hội tụ để đưa ảnh hội tụ trên võng mạc

* Vậy đeo kính thế nào cho đúng cách

Đeo kính phải đúng độ của mắt. Đeo kính ít hơn độ của mắt sẽ làm cho người bệnh nhìn không rõ, không thoải mái, hoặc có thể gây nhược thị. Nhược thị có nghĩa là dù cho người bệnh sau này được điều chỉnh và đeo kính đúng với độ của mắt thì vẫn nhìn không rõ. Đeo kính cao hơn độ của mắt thường gặp trong trường hợp cận thị có thể gây nhức mỏi mắt hoặc rối loạn điều tiết như nhức đầu, nhức mắt, chóng mặt …
- Lắp kính phải đúng tâm, đúng khoảng cách đồng tử. Lắp kính sai, không đúng tâm thường gây nhức mắt.
- Nên chọn gọng kính có độ rộng vừa với gương mặt, không quá rộng hoặc quá hẹp. Gọng quá hẹp sẽ ép vào 2 bên thái dương gây cảm giác không thoải mái. Gọng kính cần được cân chỉnh đúng, không nghiêng lệch vì sẽ gây khó chịu hoặc nhìn mờ đối với trường hợp độ nặng hoặc loạn thị.
Hai càng kính nên có độ dài vừa đủ và được chỉnh đúng để khi đeo kính không bị trễ ra ngoài làm cho bệnh nhân nhìn không đúng tâm hoặc không nhìn vào kính. Nếu càng kính quá ngắn sẽ móc vào lỗ tai gây đau và mỏi. Hai bên mũi phải được cân chỉnh đúng nếu không sẽ tạo cảm giác đau và để lại vết ấn lõm gây mất thẩm mỹ.


            * Kính sát tròng:



Hiện nay có nhiều loại kính tiếp xúc cứng và mềm. Kính tiếp xúc có ưu điểm nhẹ, đẹp về mặt thẩm mỹ, có thể thích hợp đối với 1 số nghề nghiệp như diễn viên, vận động viên... Loại tốt nhất đối với từng bệnh nhân tuỳ thuộc vào tật khúc xạ và nghề nghiệp, lối sống của chính bệnh nhân đó, vì vậy bệnh nhân cần thảo luận với bác sỹ nhãn khoa của mình khi quyết định dùng kính tíêp xúc. Tuy nhiên kính tiếp xúc cũng có một số nhược điểm như ;
- Khá đắt (giá khoảng 5 -10 USD/1 cặp) , phải thay thế liên tục sau 2 tuần sử dụng
- Bất tiện, phải tháo ra lau rửa hàng ngày khi đi ngủ hoặc khi đi tắm

- Có thể gây ra biến chứng viêm loét giác mạc, xâm nhập tân mạch vào giác mạc nếu điều kiện vệ sinh môi trường xung quanh không đảm bảo (bụi bậm, ô nhiễm...)


            Phẫu thuật chỉnh tật khúc xạ:



Một vài năm gần đây, phẫu thuật bằng tia laser đã được sử dụng để điều chỉnh tật khúc xạ. Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy Laser Excimer có thể thực hiện những thao tác phẫu thuật trên giác mạc chính xác đến 0,25 micron để điều chỉnh tật khúc xạ. Mới đây, một phương pháp mới hơn đã được áp dụng là phẫu thuật LASIK (viết tắt chữ Laser in Situ Keratomileusis) có nhiều ưu điểm hơn so với các phẫu thuật điều chỉnh tật khúc xạ bằng Laser khác vì nó thực hiện phẫu thuật dưới một lớp giác mạc phủ trên để bảo vệ. Do đó, phẫu thuật LASIK ít gây tổn thương bề mặt giác mạc hơn, ít nguy cơ thành sẹo và phù đục giác mạc hơn, giảm bớt những khó chịu của bệnh nhân sau phẫu thuật, giảm bớt thuốc điều trị hậu phẫu, và thị lực được phục hồi nhanh chóng hơn thường chỉ trong vòng 1 hoặc vài ngày.



Để chỉnh tật viễn thị, lại cần phải gọt mỏng bớt giác mạc ở vùng xung quanh để phần giác mạc trung tâm dốc hơn. 
Để có thể được phẫu thuật bằng tia laser chỉnh tật khúc xạ, bệnh nhân phải trên 18 tuổi và giác mạc mắt bệnh nhân phải bình thường, đồng thời số kính không tăng trong vòng 12 tháng qua. Nếu bệnh nhân mắc một vài bệnh khác hoặc đang có thai cũng không nên phẫu thuật bằng tia laser vội.



Mục đích của phẫu thuật Laser là để giảm sự phụ thuộc của bệnh nhân vào đôi mắt kính, hay nói cách khác là bệnh nhân có thể bỏ kính hoặc giảm số kính mà vẫn nhìn rõ. Vì vậy, bệnh nhân cần đến tư vấn ở các bác sỹ nhãn khoa nơi có phẫu thuật laser chỉnh tật khúc xạ (Viện Mắt Hà Nội, Bệnh viện mắt TP Hồ Chí Minh), và chính bệnh nhân sẽ là người quyết định cuối cùng có nên mổ bằng Laser hay không sau khi đã bàn bạc với bác sỹ của mình.


Dù bạn có thị giác hoàn toàn bình thường hay bị cận thị, viễn thị hoặc loạn thị, đến một ngày nào đó, bạn cũng bị lão thị. Đây là điều tất nhiên không chừa ai cả.


LÃO THỊ


Mắt lão, một hiện tượng tự nhiên


Thủy tinh thể, một thành phần của nhãn cầu, là một khối cứng, đàn hồi, có hình thấu kính, giữ vai trò điều tiết, tăng độ hội tụ của mắt để đưa ảng đến võng mạc, lúc đó, ta mới nhìn thấy rõ vật thể. Sự điều tiết là một hiện tượng phản xạ. Khi tích tuổi, tính đàn hồi của thủy tinh thể càng ngày càng giảm và khả năng điều tiết kém đi, người cao tuổi không trông thấy rõ những vật ở gần. Vì vậy, khi đọc sách báo, phải mang kính hội tụ.


Sự thành lập ảnh trên võng mô mắt bình thường



Một vật chỉ được thấy rõ, khi ảnh của vật chiếu chính xác đúng trên võng mạc.



Khi vật ở xa, ảnh nằm ngay trên võng mạc. Thủy tinh thể không cần điều tiết.



Trái lại, khi vật ở gần, thủy tinh thể cần điều tiết, tăng độ hội tụ của mắt để đưa ảnh trở lại võng mạc, để được thấy rõ. Mặt trước của thủy tinh thể cong lại nhiều, làm tăng độ hội tụ của mắt, kéo ảnh từ đằng sau mắt trở về võng mạc.



Mắt lão



 Khi bị lão hóa, mắt thấy rõ các vật ở xa, nhưng không còn thấy thật rõ các vật ở gần, vì thủy tinh thể mất tính đàn hồi hoặc tính đàn hồi giảm, không còn khả năng tăng độ cong lên nhiều. Vì vậy, ảnh của các vật ở gần không nằm trên võng mạc mà chỉ ở sau võng mạc. Người có mắt lão thấy mờ các vật ở gần mắt.

Lão thị là một trạng thái xảy ra ở mắt khi có biểu hiện giảm sút khả năng điều tiết của mắt, dẫn đến khả năng khi tập trung vào vật thể bị giảm sút, giống như hiện tượng tóc bạc và các nếp nhăn da.
Người ta thường cho rằng LÃO THỊ chính là VIỄN THỊ. Điều này không đúng. Lão thị là một triệu chứng gây ra bởi quá trình lão hóa tự nhiên của cơ thể, còn viễn thị là một tật khúc xạ có thể mắc từ khi còn nhỏ tuổi.

Nhóm nguy cơ

Tất cả mọi người đều bị lão thị hầu hết từ tuổi 40 trở đi, đôi khi sớm hơn hoặc muộn hơn. Cơ chế chính xác của chứng lão thị chưa được biết đến chắc chắn, nhưng thể hiện rõ ràng nhất qua sự xơ cứng của thuỷ tinh thể làm giảm sự đàn hồi. Nhưng chắc chắn một điều là cùng với năm tháng, thị lực nhìn gần sẽ ngày càng kém đi.

Thủy tinh thể qua các lứa tuổi


Trong bụng mẹ, thủy tinh thể của thai nhi được tưới máu. Sau khi sinh ra, nó được các mạch máu nuôi dưỡng. Vì vậy, cận điểm (khoảng cách tối thiểu, mà mắt trông thấy rất rõ) tăng dần với sự tích tuổi: từ 5cm lúc trẻ mới sinh, đến 10cm lúc 20 tuổi, 12,5am lúc 30 tuổi và 25cm lúc 40 tuổi. Đến 50 tuổi, chức năng vị giác biểu lộ vài dấu hiệu mệt mỏi, cận điểm là 50cm. Đến 70 tuổi là 2m. Bình thường, sách báo được đặt cách mắt khoảng 30 – 40cm, người 45 tuổi không còn thấy rõ.



Thật ra, thủy tinh thể bắt đầu lão hóa từ khi mới sinh.



Khi mắt lão, đọc sách báo rất khó khăn cũng không xỏ kim được vì không còn thấy rõ. Cần phải tăng cường ánh sáng để đọc một địa chỉ hay một số điện thoại ghi trên giấy.



Mắt lão hóa dần dần: lúc đầu chỉ cần tăng ánh sáng, nhưng dần dần đọc sách báo làm mỏi mắt, gây nhức đầu. Đến 70 tuổi, sự lão hóa mắt được ổn định, không tăng nữa. Người có mắt lão vẫn thấy rõ khi nhìn xa (vì lúc đó, mắt không cần điều tiết). Mắt lão chỉ là một vấn đề quang học, không tạo nguy cơ xuất hiện bệnh mắt nào cả.



Người cận thị cũng bị mắt lão. Mắt cận thị mất khả năng điều tiết cùng một cách và cùng thời điểm như những người khác. Do người cận thị thấy rõ khi nhìn gần, không cần điều tiết, chỉ thấy không rõ khi nhìn xa, cho nên họ nhận thấy các biểu hiện của mắt lão trễ hơn, lúc 60 tuổi hay hơn nữa. Cũng vì lẽ đó, một số người bị cận thị khi còn trẻ, lúc cao tuổi, họ có thể đọc sách báo mà không cần mang kính cận. Nhưng các cụ cần có kính để nhìn xa.

Dấu hiệu lão thị
-         Không nhìn thấy rõ vân tay, nhìn không thấy rõ chi tiết các vật ở trong tầm tay như đồng hồ, điện thoại di động... Muốn nhìn rõ phải đưa ra xa mắt và ngày càng cần xa hơn, cần có ánh sáng nhiều hơn, mắt phải nheo lại...
-         Khó nhìn rõ trong ánh sáng mờ, có vấn đề khi nhìn vào các vật thể nhỏ hoặc chữ nhỏ - thường xảy ra từ đội tuổi 40 – 50.
-         Làm công việc nhìn gần, đọc sách hoặc làm việc với máy tính không được lâu, phải dừng lại nghỉ vì thấy mỏi mắt chảy nước mắt, nhức đầu...
-         Khả năng nhìn vật thể ở gần suy giảm dần theo tuổi: khả năng điều tiết khoảng 20 dioptres (khả năng nhìn ở mức 50mm) của một đứa trẻ 10 tuổi, 10 dioptres ở tuổi 25 (100 mm), và chỉ còn 0,5 dioptres ở tuổi 60.
Triệu chứng
Các triệu chứng đầu tiên hầu hết biểu hiện qua:
-         Việc gặp khó khăn trong việc đọc chữ in nhỏ, đặc biệt trong điều kiện ánh sáng yếu
-         Mỏi mắt khi đọc trong thời gian dài
-         Khoảng cách nhìn gần bị mờ hoặc nhòe trong giây lát.
-         Bệnh nhân lão thị sẽ cảm thấy tay trở nên “quá ngắn” để giữ tài liệu đọc ở một khoảng cách thoải mái.
Người bình thường có thể nhìn rõ cả khi khoảng cách nhìn xa và nhìn gần được là nhờ có chức năng điều tiết của mắt. Điều tiết là cơ chế để mắt thay đổi công suất khúc xạ bằng cách thay đổi hình dạng thuỷ tinh thể để giúp cho hình ảnh của vật luôn hiện đúng trên võng mạc. Ở độ tuổi từ 40 trở đi, khả năng điều tiết giảm dần nên không thể nhìn rõ khi nhìn gần và phải đưa ra xa mắt để đọc hay nhìn vật thể rõ ràng.
Làm rõ nguyên nhân nhìn mờ
Tự dưng phát hiện ra mình nhìn kém quả là điều không dễ chịu. Người đeo kính thường hoặc kính áp tròng từ nhỏ thì lại quen với nó rồi. Những người khác khó chấp nhận hơn, thậm chí đôi khi còn phủ nhận khiếm khuyết này. Mỏi mắt cũng có nguy cơ dẫn đến đau đầu. Tốt hơn hết là đến khám bác sỹ nhãn khoa để làm một loạt xét nghiệm tổng thể: kiểm tra khả năng đọc xa và gần để đo mức độ lão thị, đo nhãn áp để phát hiện glaucome (nếu có), kiểm tra đáy mắt để đánh giá tình trạng các mạch máu. Đừng quên tìm xem có khiếm khuyết gì về hội tụ thường xuất hiện vào thời điểm đó, khiến cho việc đọc cũng trở nên khó khăn hơn.
Vấn đề dùng kính: mới đầu sẽ có sự dao động về kính.
Cứ 2 đến 3 năm phải thay kính một lần. Thời kỳ đầu, lão thị tiến triển rất nhanh, nhất là trong độ tuổi từ 42-47. Lão thị tiếp tục tăng, đến tuổi 55-60 thì ổn định.
Kính lúp
Để đọc, viết hay khâu vá…một số người chọn kính lúp. Mọi người nghĩ gì về sự lựa chọn này?
Ưu điểm: tiện dụng, đôi khi hơi kỳ cục, không đắt lắm…Lúc nào cũng có thể mang theo trong túi và nếu nhỡ có mất thì cũng không tiếc lắm.
Nhược điểm: kính này hiệu chỉnh theo cùng một cơ chế , do đó không ai có thể nhìn kính lúp bằng hai mắt một lúc. Ngoài ra, chất lượng kính lúp đôi khi cũng chỉ ở mức trung bình. Tốt hơn là nên có một đôi kính do bác sỹ mắt kê đơn để nhìn được tốt hơn. Đây sẽ là sự thay thế lý tưởng trong trường hợp kính lúp bị hỏng.
Kính hiệu chỉnh dần đều
Kính hiệu chỉnh dần đều cải thiện cả nhìn xa và nhìn gần. Sự hiệu chỉnh thay đổi từ cao xuống thấp, vượt qua vùng trung tâm của kính một cách nhẹ nhàng. Ngày nay, kính hiệu chỉnh dần đều vận dụng tất cả các phát minh có thể (điều trị chống va , bụi bẩn và tia sáng mặt trời). Người ta còng phát triển các kỹ thuật nhằm tăng độ tập trung của kính trước đồng tử. Ví dụ như phương pháp PPS (Personal Progressive Synchrone), trong máy vi tính các qui luật chuyển động của mắt nhằm tìm ra điểm tập trung tốt nhất.
Ưu điểm: không phải đổi kính để đọc, xem TV,…thậm chí cả khi lái xe.
Nhược điểm: tầm nhìn hai bên, hơi lộn xộn một chút, cảm giác hơi tròng trành mỗi khi ta cử động đầu. Kỹ thuật hiệu chỉnh, nhất là với các kính toàn cảnh, cho phép thích ứng trong đại đa số các trường hợp lão thị, nhất là nếu bắt đầu dùng kính sớm. Rất lý tưởng với những ai muốn nhìn thật rõ mọi vật.
Kính có trường nhìn sâu
Những kính “bán dần đều” hiệu chỉnh ở khoảng cách gần hơn. Trường nhìn sâu có thể từ 20cm đến 2m.
Ưu điểm: vật nhìn thấy ở hai bên không bị biến dạng, do đó không còn cảm giác chòng chành .
Nhược điểm: những kính này bị cấm sử dụng khi lái xe.

Lý tưởng cho những ai nhìn xa còn tốt và dùng vi tính nhiều. Nó sẽ giúp việc đeo kính hiệu chính dần đều được suôn sẻ.
Kính hai tròng

Kính này có một ranh giới nhìn thấy rất rõ giữa phần phía trên và phía dưới. Tại đây có đặt một viên bi để nhìn gần, trông không được thẩm mỹ cho lắm. Kính này thường chỉ những người quen dùng mới dùng được.
Kính áp tròng
Kính áp tròng mới được dùng trong lão thị hai mươi năm trở lại đây. Những kỹ thuật mới và chuyên dụng được đem ra cải thiện việc nhìn gần cho con người .

Kính tiếp xúc loại đồng nhất
Cơ chế nhìn đồng nhất cho phép nhìn được cả xa và gần. Trong trường hợp này, không có sự gia tăng từ cao xuống thấp. Kính  tiếp xúc loại đồng nhất có thể được sắp xếp theo cơ chế hướng tâm, như hướng vào một tâm điểm. Vùng giữa là để nhìn gần, vùng ngoại vi để nhìn xa. Với sự đa dạng như vậy, nó cho phép các nhà nhãn khoa chuyên sâu vào lĩnh vực kính tiếp xúc học, lựa chọn tốt nhất việc chỉnh quang.
Ưu điểm:  kính tiếp xúc không hề gây ra việc nhìn chuếnh choáng, đem lại sự hiệu chỉnh tuyệt hảo.
Nhược điểm: trong hợp nhất thị giác, chính não bộ, chứ không phải là mắt, đã chọn lựa những hình ảnh mà ta quan tâm trong số những hình ảnh được chiếu vào võng mạc. Chúng ta cần phải lựa chọn phần hình ảnh  hữu ích, loại bỏ phần còn lại. Công việc của trôc liên kết mắt–não đòi hỏi phải có thời gian để thích ứng khoảng 7 đến 10 ngày. May thay, tình trạng này cũng chóng qua thôi.
Lý tưởng cho những ai chuộng tính thẩm mỹ 
Nhìn một mắt hay nhìn hai mắt?
Cơ chế rất đơn giản: ở một bên mắt, người ta đặt một kính tiếp xúc được hiệu chỉnh để nhìn xa. Ở mắt kia, một kính để nhìn gần. Não bộ sẽ chọn hình ảnh mà ta quan tâm (phải hoặc trái).
Ưu điểm: sau một chút lộn xộn lúc ban đầu, việc nhìn một mắt diễn ra rất tốt bởi vì kính tiếp xúc đã thích nghi theo sự chọn lựa của tự nhiên. Thông thường, chúng ta có một mắt chuyên để nhìn gần và mắt kia, chuyên để nhìn xa.
Nhược điểm: phương pháp này không thích hợp với người bị lão thị quá mức.
Kính tiếp xúc kiểu nhìn luân phiên: hiếm khi dùng, kính tiếp xúc loại này với chức năng hơi giống kính hai tròng, nhưng độ nét thì khác biệt đáng kể. Nhìn xa ở phần trên, nhìn gần ở phần dưới. Chúng chỉ có dưới dạng kính bán cứng, nhìn chung khó dung nạp hơn các loại kính tiếp xúc khác.
Phẫu thuật
Thực tế là có tồn tại các phương pháp phẫu thuật để điều trị lão thị. Với quan điểm thận trọng, thì không nên dùng phẫu thuật để điều trị lão thị. Nói cách khác, chúng ta không chỉ có một kiểu phẫu thuật mà có những phương pháp phẫu thuật cho thật phù hợp với từng người.
Nhìn một mắt hay nhìn đa tiêu cự:
Cũng như các loại kính tiếp xúc khác, có rất nhiều sự lựa chọn. Trong loại nhìn bằng một mắt, độ hiệu chỉnh khác biệt theo từng mắt. Phẫu thuật viên sẽ đặt thiết bị hoặc dùng laser để đạt được sự thay đổi cần thiết ở mắt phải hoặc mắt trái, nhằm hiệu chỉnh lão thị hay rối loạn về thị giác.
Cần lưu ý rằng việc đeo thử kính tiếp xúc là cần thiết để kiểm tra tính tương thích của nhìn đơn hay đa tiêu cự.
Phẫu thuật dành cho những ai?
Ai thích hợp với loại phẫu thuật này? Chính là những người đeo kính thường xuyên. Người bị cận thị nặng, loạn thị và nhất là viễn thị, bắt buộc phải nhìn gần và nhìn xa bằng kính. Laser điều chỉnh tốt viễn thị và điều trị đồng thời lão thị mà không hề gây ra thêm bất cứ rối loạn thị giác nào. Phẫu thuật vẫn là khả năng được tính đến, nhưng thường dành cho những người ưa hoạt động và những ai hiểu rằng phẫu thuật không thể nào mang lại cho họ một đôi mắt như trẻ thơ.
Ở tuổi nào?
Vấn đề này tuỳ thuộc vào sự chọn lựa và kỹ thuật phẫu thuật. Với những ai thích phẫu thuật trước khi lão thị bước vào giai đoạn bình ổn (từ 53-55 tuổi), phẫu thuật viên sẽ quyết định mức độ hiệu chỉnh, có tính đến độ giảm sút thị lực trong tương lai,vốn có thể tiên lượng được.
Những biến chứng tối thiểu

Rất hiếm khi có biến chứng, nhưng vẫn có thể có: viêm, nhiễm trùng, lâu lành sẹo. Nguy cơ khác nhau, tuỳ thuộc vào việc phẫu thuật đó nằm ở trên bề mặt, ví dụ như trong phẫu thuật laser, hay trong các ca cấy ghép bên trong con mắt. Việc can thiệp, bằng cách đặt kính tiếp xúc trong mắt hệ quả thừa hưởng của hai mươi năm kinh nghiệm điều trị phẫu thuật bệnh đục thể thuỷ tinh.


6 nhận xét:

  1. Trả lời
    1. Với lại sắp tới bộ sẽ thay đổi các môn học thành tích hợp nên nhóm mình cũng muốn có chút tích hợp vào trong này.

      Xóa
  2. nhóm của bạn làm khá tốt: phần sản phẩm học sinh: nội dung rất đầy đủ nhưng về kiến thức vật lý bạn đưa vào hơi ít.

    Trả lờiXóa
  3. Cám ơn nhận xét của bạn Mi Soo nha. Nhóm mình cũng thấy ít thật, nhưng bài này là thế bạn ơi. Chỉ có một số phần là vật lý . Còn lại là các nguyên nhân, biện pháp khắc phục. Nhóm mình muốn sau dự án này học sinh biết được nguyên nhân và cách phòng tránh khắc phục để bảo vệ mắt tốt hơn thôi.
    Mong nhận được nhiều nhận xét góp ý của các bạn.

    Trả lờiXóa
  4. Học sinh được chia làm ba nhóm đi tìm hiểu thì sẽ có 3 sản phẩm của 3 nhóm khác nhau chứ?
    Hinh như thiếu phần lời khuyên của bác sĩ về cách chăm sóc mắt cho người: chưa bị cận, đã bị cận, loạn, viễn, lão.

    Trả lờiXóa

Xin hãy cho nhóm chúng tôi nhận xét và lời khuyên tại đây để chúng tôi hoàn thiện bài làm hơn.
Chân thành cảm ơn!!!